Kinh
Dịch được sử dụng để diễn tả
về Thượng Đế trong Đạo Cao Đài
Tôi là Nguyễn Chính Kết, tại Houston, Texas, xin kính
chào tất cả Quí Vị Thính giả, đặc biệt Quý chức sắc và tín hữu Đạo Cao Đài,
đang theo dõi chương trình này.
Tôi là một người Công giáo, nhưng đã từng chủ trương tìm
hiểu trong hàng chục năm về những tôn giáo khác, như Ấn giáo, Phật giáo, Đạo
giáo, Khổng giáo, và các tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt đạo Cao Đài, và Phật
giáo Hoà Hảo. Nay tôi rất hân hạnh được mời trình bày về một đề tài của Đạo Cao
Đài, đó là «CAO ĐÀI , TÂN TÔN GIÁO GIẢI THÍCH THIÊN CHÚA QUA KINH DỊCH». Tôi
xin chỉ trình bày vấn đề này theo sự hiểu biết hạn hẹp của tôi thôi. Chắc chắn
không thể hoàn toàn đúng như giáo lý của Đạo Cao Đài như các vị chức sắc trong
Đạo được. Xin Quí Vị thông cảm cho.
Nếu có gì không đúng với giáo lý, thì xin các vị chức
sắc cao minh chỉ giáo cho.
Hiện nay, có nhiều tôn giáo trên thế giới. Các tôn giáo đa số đều tôn thờ Đấng Tối Cao mà họ gọi bằng những tên khác nhau (Thiên Chúa, Thượng Đế, Đấng Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức Allah, Brahma, v.v...) quan niệm về Đấng ấy cũng theo những cách khác nhau, rồi mỗi tôn giáo lại có một hệ thống giáo lý để diễn tả về Đấng ấy theo cách của mình.
Việc diễn tả Thượng Đế thường theo phong cách của nền
văn hóa mà tôn giáo ấy phát xuất.
Ví dụ: Kitô giáo diễn tả giáo lý theo nền văn hóa hay triết lý Tây Phương; Phật giáo theo phong cách của nền văn hóa hay triết lý Ấn Độ, chịu ảnh hưởng của Kinh Vệ Đà; Đạo giáo theo phong cách văn hóa của người Trung Hoa, v.v...
Việt Nam xuất phát 3 tôn giáo: Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật giáo Hoà Hảo, và Cao Đài giáo. Ba tôn giáo này diễn tả Thượng Đế theo cung cách của văn hóa Việt Nam. Cao Đài giáo diễn tả về Thượng Đế và việc tạo dựng vũ trụ theo Kinh Dịch.
Cao Đài là một tôn giáo phát xuất từ Việt Nam năm
1926. Dân tộc Việt Nam là dân tộc có thể là duy nhất trên thế giới nhận nguồn
gốc của mình là một cặp âm dương: «Con Rồng cháu Tiên».
Cao Đài Giáo thì do Ngọc Hoàng Thượng Đế và nhiều vị
thiêng liêng khác mặc khải chân lý qua Đàn, Cơ, Bút… và dùng Kinh Dịch để diễn
tả về Thượng Đế.
Xin nói sơ qua về Kinh Dịch:
● Theo quan điểm của tôi, thì Kinh Dịch phát xuất từ
tổ tiên của dân tộc Việt Nam chúng ta. Mà nội dung chủ yếu của Kinh Dịch là
thuyết Âm Dương.
– Trên thế
giới này, chỉ có dân tộc Việt Nam là lấy vật tổ nói lên nguồn gốc của mình gồm
hai thực thể tượng trưng cho Âm và Dương… Đó là Rồng và Tiên, Rồng và chim Tiên
tức chim Phượng Hoàng.
– Sự tích
bánh dầy bánh chưng: vua Hùng Vương có 18 người con. Khi muốn truyền ngôi, đã
lấy tiêu chuẩn là ai mang đến cho nhà vua loại bánh nào tuyệt hảo nhất, sẽ được
vua truyền ngôi. Hoàng tử thứ 18 út, tên là Lang Liêu, hay Tiết Liêu, đã dâng
lên cho vua bánh dầy và bánh chưng tượng trưng cho Dương và Âm, Trời và Đất,
Cha và Mẹ.
Với chủ trương dùng Kinh Dịch để diễn tả về Thượng
Đế, đạo Cao Đài theo truyền thống của dân tộc cũng nhìn nhận nguồn gốc của vũ
trụ vạn vật là «Lưỡng Nghi», đồng thời giải thích về Thượng Đế theo triết lý
Kinh Dịch. Vì thế, Thượng Đế của Cao Đài giáo là một Thượng Đế có âm có dương,
nghĩa là có Thượng Đế Cha và Thượng Đế Mẹ.
Đến Tòa Thánh
Tây Ninh, ta thấy có hai đền thờ lớn, một đền thờ Thượng Đế Cha, và một đền thờ
Thượng Đế Mẹ. Thượng Đế Cha được biểu tượng bằng Thiên Nhãn, hình một con mắt.
Còn Thượng Đế Mẹ được biểu tượng bằng một người nữ, gọi là Diêu Trì Kim Mẫu,
hay còn gọi tắt là Phật Mẫu.
Như vậy, Cao Đài giáo quan niệm
về Thượng Đế, có âm có dương: Thượng
Đế Âm được gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, Vô Cực Đại Thiên Tôn (diễn tả theo Kinh
Dịch là Vô Cực, cũng là Âm Nghi), Thượng Đế Dương được gọi là Đức Ngọc Đế, Cao Đài Tiên Ông (là Thái
cực, cũng là Dương Nghi)
Quan niệm về Thượng Đế này rập khuôn theo triết lý
của Kinh Dịch: «Khởi thủy là Vô Cực, Vô
Cực sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng
sinh Bát Quái, Bát Quái sinh vạn vật».
Tại Á Đông,
không có một thứ triết lý nào trên thế giới lại được áp dụng rộng rãi trong mọi
khoa mọi ngành như Kinh Dịch: thiên văn học, nhân học, đạo học, y học, bốc phệ,
binh pháp, phong thủy, địa lý… Do đó, dùng quan niệm phổ biến ấy để giải thích
về Thượng Đế, về nguồn gốc của vũ trụ vạn vật thì thật là phải lẽ và thích
đáng. Điều đó cũng tương tự như Kitô giáo đã dùng nền tảng triết lý Hy-La để
giải thích mặc khải Kitô giáo cho những người bên khung trời Tây vốn chịu ảnh
hưởng triết lý và văn minh Hy-La vậy.
Với tư cách
là một người có nghiên cứu chút ít về Kinh Dịch, tôi xin trình bày cách hiểu
của tôi về cách Cao Đài giáo giải thích về nguồn gốc của vũ trụ như sau :
a) Vô Cực sinh Thái Cực
Vậy, theo quan điểm của Kinh Dịch mà Cao Đài giáo mượn để giải thích,
khởi thủy của muôn loài vạn vật là «Vô
Cực». «Vô Cực»: Vô là
không, Cực là đầu mút, khởi thủy hay cùng tận. «Vô Cực» là không có chỗ cùng tận, là một
danh từ gượng dùng để chỉ cái thực tại đầu tiên của vạn vật vốn không thể xác
định được, mênh mông vô tận trong tất cả mọi chiều kích, không thể hiểu thấu
được. Cái thực tại đầu tiên ấy không phải là «hư vô», nghĩa là không có gì cả một cách tuyệt đối, mà cũng không
phải là một cái gì đã hiện hữu, vì lúc đó chưa có một cái gì thành tựu cả. Điều
này chúng ta chỉ có thể hiểu được bằng trực giác, không thể hiểu được bằng lý
trí, mà những người đã có ít nhiều đầu óc Đông Phương rất dễ chấp nhận. Cái
thực tại hỗn độn u minh không sáng không tối, không vô không hữu, không sinh
không dưỡng ấy vô cùng rộng lớn, vô cùng tinh túy, hết sức vi tế, vô thủy vô
chung, chiếm trọn cả không gian vô tận. Thực tại hỗn độn này dần dần cô đọng
lại thành những luồng năng lực vũ trụ, và những luồng năng lực này tụ lại thành
một thực tại mà chúng ta gọi là «Thái Cực».
b) Thái Cực sinh Lưỡng Nghi
Thái là
lớn, Cực là đầu mút, khởi thủy hay cùng tận. «Thái Cực» là một thể có cùng có tận
nhưng rất lớn, do «Vô Cực» manh nha
mà thành. «Thái Cực» chính là «Vô Cực» đã đi vào hiện hữu thật sự, đã
đi từ vô hạn thành hữu hạn, từ vô định thành hữu định, từ không thành có, từ
trừu tượng thành cụ thể, từ phi vũ trụ thành vũ trụ, từ bản thể thành hiện
tượng đơn giản nhất. «Thái Cực» là hiện
hữu đầu tiên và duy nhất xuất hiện. Khối năng lực này tự sinh tự dưỡng, và do
năng lực nội tại của mình đã phân định thành «Lưỡng Nghi», gồm hai lực lượng đối nghịch nhau, nhưng lại bổ túc
lẫn nhau và nượng tựa vào nhau mà tồn tại. Đó là «Âm» và «Dương».
Khi còn là «Vô Cực» thì không có chỗ nào là trên là dưới, là trong là ngoài, là cao là thấp, là mình là không mình… Nhưng khi «Vô Cực» trở thành «Thái Cực», thì vô hạn đã trở thành hữu hạn, và tất nhiên «Thái Cực» đã thành một cái gì cụ thể, giới hạn, và như thế tất phải có trên có dưới, có trong có ngoài, có cao có thấp, có cái là mình và có cái không là mình… Trong nội bộ đã có sự phân biệt, dị biệt, thế là tự nhiên «Thái Cực» bị phân chia thành hai lực lượng đối đãi nhau, ngược lại nhau. Nhưng hai lực lượng ấy không thể tồn tại độc lập với nhau, không thể rời nhau được, không thể tồn tại mà không ở với nhau. Mỗi lực lượng đều tự xác định mình bằng cách so sánh với lực lượng kia: cao chỉ có thể là cao khi so sánh với cái thấp, nếu không có cái thấp để so sánh, thì lấy tiêu chuẩn nào để nói một vật là cao? Hai lực lượng đối đãi ấy gọi là «Âm» và «Dương».
«Âm» và «Dương» là tên chung cho tất cả những cặp tính chất đối nghịch nhau
do so sánh mà có, do sự dị biệt mà có: trên dưới, cao thấp, trong ngoài, nhỏ
to, tối sáng, ngay cong, trầm bổng, tụ tán, nặng nhẹ, khởi dứt, trong đục, v.v…
c) Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng
«Âm» và «Dương» giao nhau, trao đổi với nhau phát sinh ra bốn trường hợp
khác nhau, gọi là «Tứ Tượng», được
biểu diễn bằng: Vạch liền và dài tương trưng cho Dương, vạch đứt gồm hai
vạch ngắn tương trưng cho Âm.
d) Tứ tượng sinh Bát Quái
«Tứ Tượng» tượng trưng cho
những lực căn bản trong vũ trụ do «Âm
Dương» tạo thành, «Tứ Tượng» lại
phối hợp giao hòa với «Âm Dương»
nhiều lần nữa, sinh ra «Bát Quái». «Bát Quái» được tượng trưng bằng những
vạch sau:
Và từ «Bát Quái» ấy, vũ trụ
vạn vật mới hình thành muôn hình vạn trạng như ta thấy hiện nay.
Để kết
luận: Chỉ là một lối giải thích trong nhiều lối
Đó là cách giải thích về vũ trụ vạn vật theo Dịch Lý mà Cao Đài giáo tạm
dùng để giải thích cho con người về Thượng Đế. Tạm dùng là vì sự hình thành của
vũ trụ vạn vật vốn không thể giải thích được, nó vượt khỏi khả năng nhận thức
và hiểu biết của lý trí. Trong một đàn cơ, Đức Cao Đài Thượng Đế nói: Đó chỉ là một lối giải thích trong muôn ngàn
lối giải thích khác. Lối giải thích này phù hợp với người Á Đông vì nó phù hợp
với quan niệm sẵn có của người Á Đông. Nhưng nếu phải giải thích cho một thế
giới tiên thánh nào đó về Thượng Đế và vạn hữu thì lại phải giải thích cách
khác cao hơn, phù hợp với trình độ nhận thức của họ hơn. Vì thế, theo Cao
Đài giáo, chúng ta đừng coi cách giải thích đó là cách duy nhất để hiểu về
Thượng Đế và nguồn gốc của vũ trụ. Đó chỉ là một trong muôn ngàn cách có thể có
để giải thích về Thượng Đế và vũ trụ.
Nguyễn Chính Kết
No comments:
Post a Comment